Cai trị Hán Linh Đế

Hoạn quan trừ ngoại thích

Sau khi nắm đại quyền, Đậu Vũ và Trần Phồn đều muốn cố gắng khôi phục lại trật tự của nhà Hán, tiêu diệt sách quyền lực của các hoạn quan. Hai người khôi phục lại tước vị của những nạn nhân bị các hoạn quan buộc tội trước đây, biến họ thành thế lực chóng lại hoạn quan.

Năm Kiến Ninh nguyên niên (168), Đậu Vũ và Trần Phồn lên kế hoạch trừ khử các hoạn quan do Vương Phủ (王甫) cùng Tào Tiết cầm đầu. Trần Phồn nói:"Trung thường thị Tào Tiết, Vương Phủ khi hầu cận Tiên Đế đã làm dấy động chính sự quốc gia, chướng khí mù mịt, bá tánh hỗn loạn, tội họa chính là bọn họ. Hiện tại không giết bọn chúng, đại sự không thành". Đậu Vũ phi thường tán thành, sau đó sắp đặt các thân tín là Thượng thư lệnh Doãn Huân (尹勋), Thị trung Lưu Du (刘瑜), lại mời Thái thú Việt TâyTuân Dực (荀翌) làm Tòng sự Trung lang, người Dĩnh Xuyên là Trần Thực làm Duyện thuộc, đồng thương định kế sách, văn sĩ khắp thiên hạ không ai là không phấn chấn. Đậu Vũ từng bàn định kế hoạch với Đậu Thái hậu, nhưng Thái hậu mãi không hề quyết, sự việc cứ bị trì kéo mãi[8][9].

Tháng 8, sao Thái Bạch xuất hiện, Lưu Du viết thư cho Trần Phồn cùng Đậu Vũ, khuyên răn đại sự không thể đợi được nữa. Thế là Đậu Vũ dùng quyền thủ phụ ra lệnh bãi miễn Hoàng môn lệnh Ngụy Bưu (魏彪), lấy người của mình là Tiểu hoàng môn Sơn Băng (山冰) thay thế, lại bắt giam Trường Lạc Thượng thư Trịnh Táp (郑飒) vốn là kẻ giảo hoạt vào Bắc ngục. Trần Phồn khuyên nên giết Trịnh Táp, nhưng Đậu Vũ không nghe, lệnh Sơn Băng cùng Doãn Huân thẩm vấn, lời khai khai ra Tào Tiết cùng Vương Phủ, thế là lại tra khảo Tào, Vương trong ngục[10].

Hoạn quan Chu Vũ (朱瑀) là người được phong làm Tư lệ Giáo úy (司隶校尉), nhìn lén tấu chương phát hiện kế hoạch Trần Phồn cùng Đậu Vũ lên kế hoạch giết toàn bộ hoạn quan, Vũ tri hô:"“Hoạn quan phóng túng phi pháp đương nhiên có thể sát. Ta có tội gì? Vì lý gì phải cũng bị diệt tộc?", thế là Chu Vũ lên một âm mưu với 17 hoạn quan khác để phát động chính biến chống Trần Phồn và Đậu Vũ. Tào Tiết cùng các hoạn quan khác vào tẩm cung bắt cóc Hán Linh Đế, bàn mưu cùng nhau làm ra một chiếu chỉ giả, bổ nhiệm Trường lạc thực giám Vương Phủ làm Hoàng môn lệnh (黄门令), mang quân giết Doãn Huân cùng Sơn Băng để giải cứu Trịnh Táp, sau đó họ vào cung bắt cóc Đậu Thái hậu để đoạt tỉ thụ, ban hành chiếu lệnh sai Trịnh Táp cấm Tiết phù để bắt Đậu Vũ. Biết sự việc đại họa, Đậu Vũ giết chết sứ giả, chỉ huy mấy ngàn quân đóng ở Đô Đình (thuộc Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc), giao chiến ác liệt với quân Hổ bôn và quân Vũ lâm của Vương Phủ, nhưng cuối cùng ông bị thua trận và buộc phải tự sát. Trần Phồn cũng tham chiến và bị bắt giết.

Sau đó, Đậu Vũ cùng Trần Phồn bị bêu đầu ở kinh thành Lạc Dương, gia đình ông bị lưu đày đến quận Nhật Nam (thuộc Trung Bộ Việt Nam hiện nay), những người trong họ và tân khách bị giết chết. Đậu Thái hậu bị buộc phải rút lui khỏi vai trò nhiếp chính và bị quản thúc ở Nam Cung, tức Trường Lạc cung[11][12].

Hỏng chính sự

Năm Kiến Ninh thứ 2 (169), Đậu Thái hậu sau sự kiện trên thì rút vào hậu cung. Hoàng quyền có biến, Hán Linh Đế Lưu Hoành nhân đó bèn cho người đón mẹ ruột là Đổng phu nhân vào cung, tôn xưng Hiếu Nhân hoàng hậu (孝仁皇后). Cháu trai trong họ của Đổng hậu là Đổng Trọng (董重) được vào triều làm Phiêu kỵ tướng quân (骠骑将军).

Năm đó, Đôc bưu của quận Sơn Dương là Trương Kiệm (张俭) buộc tội Trung thường thị Hầu Lãm (侯览) nhân danh về quê tảo mộ cho mẹ, đã phô trương thanh thế, quấy nhiễu dân chúng. Điều này chọc giận Hầu Lãm, thế là Hầu Lãm liên kết với người trong đảng phái của mình thượng thư buộc tội Trương Kiệm cùng 24 vị danh sĩ khác kết bè kéo đảng, gây họa chính trị. Khi Linh Đế nhìn thấy tấu chương, hỏi thân tín Tào Tiết, và Tào Tiết phụ họa theo Hầu Lãm, rốt cuộc khiến Linh Đế phê duyệt. Cuối cùng đòn đánh chính trị này của Hầu Lãm đã diễn ra một đợt càn quét đảng người sĩ phu, người đào vong, người bị bắt rồi giết lên đến 700 người. Đây gọi là Đảng cố chi họa (党锢之祸) lần thứ hai của thời Đông Hán, lần thứ nhất diễn ra vào năm Vĩnh Khang (167) thời Hán Hoàn Đế.

Trong thời gian Linh Đế tại nhiệm, hoàng quyền có điều suy yếu, do các hoạn quan đều nắm hết mấu chốt chính trị. Sau khi họ Đậu bị diệt, đã hình thành nên 10 thế lực hoạn quan mạnh nhất đương thời. Trong đó có: Trương Nhượng, Triệu Trung, Tào Tiết, Phong Tư, Đoàn Khuê, Hầu Lãm, Quách Thắng, Kiển Thạc, Hạ Huy, Trình Khoáng; đương thời gọi là Thập thường thị (十常侍). Thời kỳ Linh Đế trị vì, là thời gian mà hoạn quan đời Hán nắm chính lâu nhất trong lịch sử. Thời kỳ đầu, Vương Phủ cùng Tào Tiết là hai hoạn quan thân tín nhất của Linh Đế, sau đó Vương Phủ bị Dương Cầu (阳球) hại chết, Tào Tiết chết già, thì đến Trương Nhượng nổi lên, Linh Đế kính trọng Trương Nhượng xem như cha đẻ vậy.

Đương thời, Linh Đế Lưu Hoành từ nhỏ bị bao vây bởi các thế lực, lớn lên cũng bị đánh giá là kém về khả năng chính trị[13]. Sau nhiều đợt thanh trừng của ngoại thích và hoạn quan, Linh Đế không chăm lo triều chính nữa mà chỉ đam mê tửu sắc và hưởng lạc. Long xa ông dùng không lấy ngựa kéo mà thay bằng lừa kéo, tung hoành khắp nơi mà không có quy củ. Vì chán cảnh sống nhàm trong cung, ông sai các cung nữ mở quán trọ trong cấm thành, còn mình đóng vai khách vào ngủ trọ. Hiếu Nhân Đổng hoàng hậu và những người trong hoàng tộc cũng ăn chơi xa xỉ, đã giục con bán quan chức thu tiền. Năm Quang Hòa nguyên niên (178), ông cho áp dụng chính sách mua bán quan chức: chức Tam công bán 10 triệu, tước Hầu bán 5 triệu. Tào Tung, cha của Tào Tháo đã bỏ tiền ra mua được chức Thái úy trong dịp này[13]. Do Hoàng đế cho mua quan bán chức, những người mua được chức quan lại bóc lột của dân nặng nề để thu lại tiền bỏ ra. Triều đình thu sưu cao thuế nặng nên đời sống nhân dân rất cực khổ.

Năm Quang Hòa thứ 3 (180), Linh Đế lập người quận Nam Dương là Quý nhân Hà thị làm Hoàng hậu, anh Hà hậu là Hà Tiến cũng được phong Đại tướng trong triều, trở thành ngoại thích mới.

Loạn lạc khắp nơi

Do nạn quan tham tràn lan, nhiều nơi nhân dân nổi dậy làm phản, đồng thời một số trấn địa phương cũng không tuân phục triều đình. Năm Quang Hòa thứ 7 (184), anh em Trương Giác nổi dậy một cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn, được sử gọi là loạn Khăn Vàng. Phía Tây bắc, Mã Đằng cùng Hàn Toại, Vương Quốc chiếm lĩnh Tây Lương. Phía Nam, Quan Hộc tự xưng là "Bình Thiên tướng quân", Hứa Sinh nổi dậy ở Cú Chương thuộc Dương châu. Phía Bắc, Quách Đại nổi lên ở Bạch Ba.

Theo ý kiến của Hà Tiến, Hán Linh Đế kêu gọi các trấn mang quân tiếp ứng giúp triều đình. Cuối cùng các cuộc nổi dậy đều bị dẹp. Tình hình tạm yên, Linh Đế lại trọng dụng các hoạn quan. Hai vị tướng có công dẹp loạn là Hoàng Phủ TungLư Thực bị hoạn quan gièm pha nên bị hạch tội và tước quân công ngoài chiến trường. Hoạn quan Trương Nhượng từng thông đồng với quân Khăn Vàng lại được ghi công đầu dẹp loạn[13]. Hán Linh Đế còn cho hoạn quan Kiển Thạc (蹇硕) lên chức Thượng quân Giáo úy, cầm quyền chỉ huy quân đội. Các sử gia đánh giá quyết định này là sai lầm lớn của Hán Linh Đế khi ông buộc Hà Tiến phải dưới quyền Kiển Thạc khiến cho hai người mâu thuẫn gay gắt thêm, dẫn tới khởi đầu cho loạn lạc trong triều sau này[14].